Thực đơn
MIM-23 HAWK Tên lửaKiểu | Trang bị | Kí hiệu | Phiên bản huấn luyện |
---|---|---|---|
Nguyên mẫu | 1957 | XM3 (XMIM-23A) | n/a |
Hawk nguyên bản | 1959 | (M3) MIM-23A | XM16/18 (XMTM-23B/C) |
Hawk-I | 1971 to 1978 | MIM-23B | XMEM-23B |
Cải tiến chống nhiễu | 1982 | MIM-23C/D | MEM-23C |
Cấp thấp/đa nhiễu | 1990 | MIM-23E/F | MEM-23D |
Mặt cắt thân tên lửa kiểu mới | Đầu những năm 1990s | MIM-23G/H | MEM-23E |
Đầu đạn và ngòi nổ mới chống tên lửađạn đạo | 1995 | MIM-23K/J | MEM-23F |
Ngòi nổ mới, đầu đạn giữ nguyên | 1995 | MIM-23L/M |
Tên lửa Hawk có dạng thân hình trụ thon với bốn cánh tam giác, kéo dài từ giữa thân tên lửa đến thuôn nhọn ở đuôi. Mỗi cánh đều có cánh tà trước.
Những năm 1970, NASA sử dụng những tên lửa Hawk dư thừa để làm tên lửa nghiên cứu Nike Hawk.[4]
Tên lửa Hawk nguyên bản trang bị đầu đạn nặng 54 kilôgam (119 lb), khi phát nổ sẽ văng ra xấp xỉ 4.000 mảnh nhỏ có khối lượng 8 gam (0,28 oz) di chuyển với tốc độ xấp xỉ 2.000 mét trên giây (6.600 ft/s) trong một cung 18 độ.
Tên lửa MIM-23B có đầu đạn phân mảnh lớn hơn, nặng 74 kg (163 lb), cùng với đó là hệ thống dẫn đường tiên tiến và nhỏ gọn hơn, và động cơ tên lửa M112 mới. Đầu đạn giải phóng ra 14.000 mảnh văng nặng 2 gam (0,071 oz) bao phủ một cung lớn hơn, với góc 70 độ. Động cơ tên lửa M112 có giai đoạn khởi tốc kéo dài 5 giây và giai đoạn bay duy trì kéo dài 21 giây. Động cơ có tổng khối lượng là 395 kg (871 lb) bao gồm 295 kg (650 lb) nhiên liệu. Động cơ mới giúp mở rộng phạm vi đánh chặn từ 1,5 đến 40 km (0,93 đến 24,85 dặm) ở độ cao lớn và từ 2,5 đến 20 km (1,6 đến 12,4 dặm) ở độ cao thấp, độ cao đánh chặn thấp nhất là 60 mét (200 ft). Tên lửa được đưa vào trang bị năm 1971. Tất cả các khẩu đội tên lửa Hawk đã chuyển sang sử dụng phiên bản tên lửa mới từ năm 1978.
Hawk và phiên bản Hawk nâng cấp-Improved Hawk được tích hợp vào một hệ thống điều khiển và điều phối phòng không—AN/TSQ-73, còn được gọi là Missile Minder hay Hawk-MM. Nó bao gồm các thành phần sau: Radar MPQ-50, MPQ-48, trung tâm điều khiển khẩu đội TSW-8, trung tâm điều phối thông tin ICC, MSW-11, radar chiếu xạ năng lượng cao MPQ-46, radar cự ly MPQ-51 cùng với xe bệ phóng M192.[5]
Tên lửa HAWK nguyên bản 1959 | MIM-23A | |||||||||||||||||
1971 I Hawk | MIM-23B | |||||||||||||||||
Phiên bản nâng cấp ECCM 1982 | MIM-23C | |||||||||||||||||
MIM-23D | ||||||||||||||||||
Nâng cáp đầu dò và khả năng ECCM năm 1990 Improved guidance | MIM-23E | MIM-23F | ||||||||||||||||
Cải tiến thân tên lửa | MIM-23G | MIM-23H | ||||||||||||||||
Cấu hình chống tên lửa đạn đạo chiến thuật | MIM-23K | MIM-23J | ||||||||||||||||
Cải tiến ngòi nổ | MIM-23L | MIM-23M | ||||||||||||||||
Giới thiệu năm 1982, cải thiện khả năng đối kháng điện tử.
Không rõ những cải tiến trên phiên bản MIM-23C. Phiên bản C và D vẫn tách biệt cho đến khi tên lửa bị loại khỏi trang bị. Không rõ điểm khác nhau giữa hai loại tên lửa này-tuy nhiên dường như phiên bản D sử dụng hệ thống dẫn đường khác, có thể là dẫn đường nhằm vào nhiễu được phát triển để đối phó lại các công nghệ gây nhiễu điện tử được trang bị trên máy bay của Iraq vốn xuất xứ từ Liên Xô trong chiến tranh Iran-Iraq.
Low level/multi jamming
Bản cải tiến của MIM-23C/D nhằm cải thiện khả năng dẫn đường trong môi trường nhiễu nặng. Được giới thiệu năm 1990.
Phiên bản thiết kế lại thân tên lửa
Là bản thiết kế năm 1995 trong đó áp dụng nhiều cấu hình thân khác nhau cho tên lửa MIM-23E/F.
Đầu đạn và ngòi nổ mới chống tên lửa đạn đạo chiến thuật
Được giới thiệu năm 1994, cải thiện độ sát thương của đầu đạn với cấu hình đầu đạn có chứa các mảnh văng nặng 35 gram (540 grain) thay vì đầu đạn với mảnh văng nặng 2 gram (30 grain) trên tên lửa I-Hawk. MIM-23K Hawk có phạm vi đánh chặn ở độ cao 20.000 m và cự ly tới 45 km. Tên lửa cũng trang bị ngòi nổ mới để chống tên lửa đạn đạo chiến thuật.
Cải tiến ngòi nổ-đầu đạn không đổi
Giữ lại đầu đạn phân mảnh 30 grain, nhưng có ngòi nổ mới.
Radar PAR của hệ thống tên lửa Hawk.Radar thu tín hiệu PAR
Đây là radar tìm kiếm mục tiêu ở cự ly xa, độ cao lớn.
Là radar tìm kiếm sử dụng trên hệ thống tên lửa Hawk nguyên bản, với năng lượng bức xạ xung radar là 450 kW với thời gian mỗi xung là 3 µs, tần số lặp lại xung lần lượt là 800 và 667 Hz. Radar hoạt động trong dải tần số từ 1,25 đến 1,35 GHz. Ăng ten là một tấm phản xạ hình elip 6,7 m × 1,4 m (22,0 ft × 4,6 ft) với cấu trúc mạng lưới mở, được gắn trên một xe kéo nhỏ hai bánh. Tốc độ quay là 20 vòng/phút, trung tâm điều khiển khẩu đội-BCC – Battery Control Central và radar CWAR được đồng bộ với tốc độ quay của PAR và kích hoạt hệ thống PAR.
Giới thiệu cùng với hệ thống I-Hawk, là hệ thống PAR sau nâng cấp. Hệ thống tên lửa mới có chỉ thị mục tiêu chuyển động kỹ thuật số MTI (Moving Target Indicator) giúp hệ thống phân biệt được mục tiêu đang di chuyển giữa nhiễu nền mặt đất. Hệ thống vận hành ở dải tần số từ 500 đến 1.000 MHz (Băng tần C-NATO) với xung bức xạ radar công suất 450 kW.
Radar doppler 3D băng tần X được sử dụng trong hệ thống tên lửa phòng không Hawk XXI. Nó thay thế cho radar CWAR và PAR trong các hệ thống Hawk đời cũ. MPQ-64 Sentinel có phạm vi bao phủ rộng hơn với cự ly ngoài 75 km (47 dặm), tốc độ quay 30 vòng/phút. Hệ thống có thời gian hoạt động trung bình trước khi lỗi xảy ra là 600 giờ và có khả năng theo dõi cùng lúc 60 mục tiêu, góc ngẩng +55 độ tối đa và góc chúc tối đa −10 độ.[6]
Radar thu tín hiệu sóng liên tục CWAR
Radar này hoạt động ở băng tần X dùng để phát hiện mục tiêu. Radar được đặt trên xe di động riêng biệt. Hệ thống có khả năng phát hiện mục tiêu trong góc phương vị 360 độ và cung cấp thông tin thô về tốc độ và cự ly của mục tiêu.
Radar CWAR MPQ-34 Hawk có công suất vận hành là 200 W và dải tần số hoạt động là 10 GHz (Băng tần X). Được chế tạo bởi Raytheon. Sau này bị thay thế bởi MPQ-48.
Radar CWAR của I-Hawk có năng lượng phát tăng gấp đôi và cải thiện tầm phát hiện:
Hawk Improved Continuous Wave Acquisition Radar hay là ICWAR, năng lượng bức xạ tăng gấp đôi lên 400 W, tăng phạm vi phát hiện lên khoảng 70 km (43 dặm). Radar hoạt động ở băng tần J 10–20 GHz. Điều chế tần số được áp dụng cho việc phát sóng trên các lần quét luân phiên của ICWAR để thu được thông tin về cự ly.
Một số thay đổi trong xử lý tín hiệu cho phép radar xác định phạm vi và tốc độ của mục tiêu trong một lần quét. Hệ thống DSP kỹ thuật số được bổ sung cho phép thực hiện nhiều công việc xử lý trên radar một cách trực tiếp và chuyển tiếp trực tiếp thông qua liên kết kỹ thuật số nối tiếp tới PCP/BCP.
Radar HPIRadar chiếu xạ công suất cao-HPIR High Power Illuminating Radar
Radar HPIR thời kỳ đầu như AN/MPQ-46 chỉ có hai ăng ten lớn dạng đĩa đặt cạnh nhau, một để phát, một để thu. HPIR tự động thu nhận và theo dõi các mục tiêu được chỉ định theo góc phương vị, độ cao và cự ly. Nó cũng hoạt động như là đơn vị phân cách cung cấp góc phương vị và góc phóng cho thiết bị xử lý dữ liệu tự động-Automatic Data Processor (ADP) trong trung tâm điều phối thông tin-Information Coordination Centre (ICC) đến IBCC hoặc bộ chỉ huy-Improved Platoon Command Post (IPCP) cho tối đa ba bệ phóng. Tín hiệu radar HPIR băng tần J phản xạ từ mục tiêu cũng sẽ được thu lại bởi tên lửa Hawk. Những tín hiệu trở về này sẽ được so sánh với các tín hiệu được truyền trực tiếp đến tên lửa từ HPIR. Việc bám mục tiêu được tiến hành trong suốt quá trình bay của tên lửa. Sau khi tên lửa đánh chặn mục tiêu, dữ liệu HPIR Doppler được sử dụng để đánh giá kết quả của cuộc đánh chặn. HPIR nhận chỉ định mục tiêu từ một hoặc cả hai radar giám sát thông qua Trung tâm điều khiển khẩu đội-Battery Control Centre (BCC) và tự động tìm kiếm một khu vực nhất định để khóa mục tiêu nhanh chóng. HPIR hợp nhất ECCM và BITE. Các radar HPIR gồm các radar sau
Phần lớn các thiết bị điện tử ống chân không còn lại được nâng cấp lên sử dụng thiết bị điện tử bán dẫn. Ngoài ra, một hệ thống bắt bám mục tiêu quang-điện, chỉ vận hành vào ban ngày OD-179 / TVY TAS (Hệ thống hỗ trợ bám mục tiêu-Tracking Adjunct System) được bổ sung để hoạt động trong môi trường bị gây nhiễu điện tử ECM. TAS được phát triển từ TISEO của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ (Hệ thống nhận dạng mục tiêu quang điện-Target Identification System, Electro-Optical) sản xuất bởi Northrop. Nó bao gồm một máy quay video với ống kính zoom × 10. I-TAS được thử nghiệm thực địa vào năm 1992 đã bổ sung thêm khả năng theo dõi dải hồng ngoại cho việc bắt bám vào ban đêm cũng như phát hiện và theo dõi mục tiêu tự động.
Được nâng cấp với việc bổ sung hệ thống LASHE (Đánh chặn đồng thời ở độ cao thấp-Low-Altitude Simultaneous Hawk Engagement), cho phép Hawk tấn công nhiều mục tiêu tầm thấp bằng cách sử dụng ăng ten chùm quạt để có thể chiếu xạ góc rộng, độ cao thấp để cho phép chống lại nhiều mục tiêu trong các cuộc đột kích. Ăng ten này có hình chữ nhật. Hệ thống cho phép đánh chặn tối đa 12 mục tiêu cùng một lúc. Ngoài ra tên lửa còn có đầu dò quang học thụ động TV/IR.
Radar xác định cự ly-ROR-Range Only Radar
Radar ROR sẽ tự động hoạt động nếu như radar HPIR không thể xác định được cự ly mục tiêu, thường là do bị nhiễu. Radar ROR khó bị gây nhiễu vì nó chỉ hoạt động trong thời gian ngắn khi việc đánh chặn đang diễn ra, và chỉ hoạt động khi có nhiễu. Những radar loại này gồm có
Thực đơn
MIM-23 HAWK Tên lửaLiên quan
MIM-23 HAWK MIM-3 Nike Ajax MiG-23 MiG-23PDTài liệu tham khảo
WikiPedia: MIM-23 HAWK http://www.kokpit.aero/turkiyenin-orta-menzil-i-ha... http://www.defensenews.com/article/20140915/DEFREG... http://www.forecastinternational.com/Archive/mm/mm... http://www.janes.com/article/34694/egypt-jordan-to... http://www.payvand.com/news/09/jun/1059.html http://www.presstv.com/detail.aspx?id%3D123003%26s... http://www.raytheon.com/products/stellent/groups/p... http://strategypage.com/htmw/htada/articles/201212... http://www.designation-systems.net/dusrm/m-23.html http://www.roaf.ro/en/dotare/hawk_en.php